Sách hay về người An Nam

Sách về người An Nam hay nhất. Viết về lịch sử, văn hóa, tâm lý, tập tục, đời sống của xứ An Nam bằng góc nhìn khách quan, đa dạng và tin cậy.

Đế Quốc An Nam Và Người Dân An Nam – Jules Silvestre

Đế Quốc An Nam Và Người Dân An Nam – Jules Silvestre

Dưới con mắt của các nhà chuyên môn, tác phẩm này ẩn giấu một công trình thú vị và tin cậy. Hơn thế, nó còn có thể cung cấp các công cụ thực tế: bất cứ khi nào cần phải trình bày một bức tranh chính xác về Nam kỳ, người ta không thể không viện dẫn.

Tác phẩm được đăng lần đầu (nhiều kỳ) trên tờ Công báo Courrier de Saigon (Sài Gòn thư tín) vào năm 1875 và 1876, xuất bản dưới sự bảo trợ của chính quyền thuộc địa.

Nhưng vào thời điểm đó, tờ báo này, chính thức chỉ được in với số lượng rất nhỏ; vì rất nhiều lý do, hầu hết đã thất lạc và đến lúc này rất khó để có được bộ sưu tập một cách thuận tiện. Đây là lý do tại sao Aperçu (Tổng quan) hoàn toàn bị bỏ qua không chỉ ở Sài Gòn mà đặc biệt cả ở Pháp. Cũng vì lý do này mà Jules Silvestre đã tiến hành định bản để xuất bản nó cùng với việc viết thêm những thông tin bổ sung và chú giải..

An Nam Chí Lược

An Nam Chí Lược

Từ lâu, giới nghiên cứu học thuật ở nước ta và ở cả nhiều nước trên thế giới đã biết đến bộ sách An Nam chí lược. Đặc biệt ở Trung Quốc, bộ sách này được công nhận là tài liệu của Nhà nước và cũng từng được Tứ khố toàn thư giới thiệu và xuất bản nhiều lần ở Thượng Hải, Bắc Kinh, Thiển Tây… An Nam chí lược trong vài thế kỷ nay cũng được dịch, xuất bản, giới thiệu tại các nước Nhật Bản, Anh và Pháp.

Tại Việt Nam ta, từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cứu tuy có sử dụng, khai thác các sử liệu trong An Nam chí lược, coi đó như những cứ liệu thành văn đáng tin cậy, phản ánh một chặng dài lịch sử từ thế kỷ XIV trở về trước.

Nội dung sự thực lịch sử nước ta chứa đựng trong bộ sách này thật đa dạng và phong phú. An Nam chí lược là một nguồn tư liệu quan trọng, một phương pháp cho những bộ lịch sử Đại Việt của các tác giả khác (không nhiều lắm) viết lúc đương thời..

An Nam Truyện

An Nam Truyện

An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa là tập hợp các ghi chép về Việt Nam trong 17 bộ chính sử xưa của Trung Quốc, bao trùm một khoảng thời gian dài, từ thời nhà Tần, Hán đến năm 1911, khi cuộc Cách mạng Tân Hợi chấm dứt triều đại phong kiến cuối cùng ở nước này.

Đồng thời, ngoài những ghi chép trực tiếp về vùng đất Việt cổ được biết đến với tên gọi Giao Chỉ, An Nam… thì những ghi chép về các vương quốc xưa đến nay tuy không còn mà đã là một phần của lãnh thổ Việt Nam hiện đại như: Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp… cũng được chọn dịch và ghi chép vào sách này để bạn đọc có thêm tư liệu về lịch của các vùng đất ấy trong tiến trình chung của lịch sử Việt Nam.

Tâm Lý Dân Tộc An Nam

Tâm Lý Dân Tộc An Nam

Công trình nghiên cứu Tâm lý dân tộc An Nam (Psychologie du Peuple annamite) được Paul Giran – một quan chức cai trị thuộc địa Pháp, xuất bản vào năm 1904 sau hơn ba năm thu thập và tích lũy quan sát ở Đông Dương, để phục vụ công cuộc thực dân của nước Pháp trên đất An Nam.

Tác phẩm ra mắt người đọc Pháp quốc năm 1904, vào thời điểm những cuộc chinh phục bằng sức mạnh quân sự của người Pháp trên Vương quốc An Nam và bán đảo Đông Dương đã bước vào hồi kết, và công cuộc thuộc địa hóa xứ sở này dần chuyển sang một giai đoạn mới. Những kinh nghiệm ở Bắc Phi (Algérie, Tunisie, Maroc…) cho người Pháp hiểu rằng để duy trì sự hiện diện của họ ở An Nam nói riêng và xứ Đông Dương nói chung, họ cần đến một quá trình lâu dài.

Đó là phải tìm cách làm sao cho sự phân ly mẫu quốc – thuộc địa không trở thành một sự đứt gãy thảm khốc về nhiều mặt. Và để tìm ra con đường, trước hết những người Pháp cần phải hiểu về tâm lý dân tộc An Nam, mà công trình nghiên cứu này của Paul Giran chính là một trong những tài liệu tham khảo cho các chính khách ở mẫu quốc lúc bấy giờ..

Hội Kín Xứ An Nam

Hội Kín Xứ An Nam

Cuốn sách này nghiên cứu về hội kín ở xứ An Nam, khởi từ sự bất ngờ và ngỡ ngàng của người Pháp về chuỗi sự kiện mưu loạn bạo động diễn ra ở khắp 3 kỳ vương quốc An Nam kéo dài từ cuối thế kỷ 19 đến trước năm 1930; đặc biệt là sự kiện 1913 ở Chợ Lớn (Phan Xích Long và các huynh đệ) và vụ Khám Lớn Sài Gòn năm 1916. Georges Coulet đã không hiểu làm thế nào mà tại cùng một thời điểm, ở khắp nơi trên toàn cõi Nam kỳ lại đồng loạt bùng nổ khởi nghĩa.

Đào sâu nghiên cứu, tác giả Coulet nhận ra đây không thể là ngẫu nhiên, là sự bột phát của đám đông quần chúng mà phải có sự sắp xếp và tổ chức tinh vi. Từ đây mà ông tìm kiếm để bóc tách hòng tìm hiểu về hội kín..

Làng Xã Của Người An Nam Ở Bắc Kỳ

Làng Xã Của Người An Nam Ở Bắc Kỳ

“Xét cho cùng thì dù chúng ta sử dụng cách thức nào đi nữa, chính quyền bảo hộ vẫn có bổn phận phải chấn hưng xã An Nam bằng cách trang bị cho nó một số thiết chế như của chúng ta, đặc biệt là bằng cách giảm quyền lực tuyệt đối của tầng lớp chức sắc xã.

Làm như vậy, chính quyền bảo hộ chắc chắn sẽ thu phục được sự ủng hộ hoàn toàn của tầng lớp dân chúng thông minh và dễ mến, những người, với ước muốn hưởng những thành quả của nền văn minh và tiến bộ, sẽ sẵn sàng hợp tác cùng với chính quyền bảo hộ, để biến thuộc địa vốn được thiên nhiên ưu ái này thành một trong những xứ sở thanh bình và thịnh vượng nhất trên thế giới.”

Quan điểm mới mẻ này đã thôi thúc viên công sứ Pháp nhưng rất gắn bó với xứ An Nam, Paul Ory, học tiếng Việt để có thể trực tiếp nói chuyện với người Việt, từ đó tìm hiểu những nét đặc sắc riêng có của làng xã ở Bắc Kỳ, “đơn vị cơ bản và chủ yếu hợp thành vương quốc An Nam”, trên mọi phương diện của nó.

Một tài liệu tham khảo thú vị và chứa đựng không ít bất ngờ, ngay cả với người Việt Nam trong thời hiện đại.

An Nam Cung Dịch Ký Sự

An Nam Cung Dịch Ký Sự

Chu nhận được hịch chiêu mộ người “biết chữ” của “Quốc vương” và ra trình diện ngày 3 tháng 2 năm 1657, Chu bị tống giam và bị đối đãi như “tù giặc nước ngoài bị bắt sống” (khấu lỗ). Sau đó, khi được dẫn đến nha môn, quan ra lệnh cho Chu làm một bài thơ khẩu hứng rồi viết lên giấy. Chu khăng khăng không chịu làm thơ, dùng bút giải thích là vì “cảnh nước mất nhà tan” và “không cam bím tóc” theo nhà Thanh nên Chu mới trốn sang Nước ta, “ruột gan nóng như lửa đốt, làm thơ sao đặng”.

Khi biết Chu là “cống sĩ” (giống như “trưng sĩ”, nhưng trưng sĩ là cách gọi tổng quát), quan có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.

Lúc ở Hội An, Chu thuê nhà chung với ba người Nhật. Chủ nhà là Gombê (Quyền binh vệ), cũng là người Nhật. Sáng sớm trước khi bị dẫn ra Dinh Cát, Chu tắm gội sạch sẽ, rồi căn dặn cặn kẽ người nhà phải làm gì khi trong trường hợp bị giết mà không về lại Hội An. Khi từ Dinh Cát về lại Hội An thì đồ đạc trong phòng Chu bị kẻ trộm vào lấy sạch, không còn gì cả. Trong khi hàng xóm láng giềng ai cũng đinh ninh chủ nhà là thủ phạm, Chu vẫn một mực không chút tỏ ý nghi kỵ Gombê. Sau khi điều tra biết Gombê là người vô tội, lúc bấy giờ hàng xóm mới khen Chu không phải là người tầm thường..

Nghệ Thuật Xứ An Nam

Nghệ Thuật Xứ An Nam

Sáng tạo nghệ thuật chỉ có thể nở rộ trong một xã hội hưng thịnh, phồn vinh, dưới sự cai trị của những ông hoàng giàu sang và nhờ vào một chế độ bảo trợ sáng suốt. Tất cả những điều đó đều thiếu vắng ở xứ An Nam, nơi đến cả những thú vui của cuộc sống thái bình cũng còn là điều hiếm.

Ấy thế mà, các nghệ nhân xứ này, từ đời này sang đời khác, vẫn tạo ra được một dấu ấn riêng hết sức duyên dáng, thanh lịch, thậm chí quyến rũ, nhờ tài khéo léo đến hoàn hảo trong kỹ thuật chế tác.

Cuốn sách là cái nhìn khách quan và toàn cảnh của một người Pháp từng sinh sống và gắn bó với xứ An Nam một thời gian dài, được minh họa bằng 16 bức ảnh tư liệu quan trọng, giúp độc giả hình dung rõ hơn về bối cảnh chung của xã hội An Nam đầu thế kỷ 20, cũng như nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa và các ngành thủ công mỹ nghệ ở nước ta thời kỳ đó.

Ba Năm Ở An Nam Hay Nha Trang 100 Năm Trước

Ba Năm Ở An Nam Hay Nha Trang 100 Năm Trước

Được xuất bản lần đầu tiên năm 1910 bằng tiếng Anh với tựa đề Three years in Vietnam và năm 1912 bằng tiếng Pháp với tựa đề Mes Trois Ans d’Annam của bà Gabrielle M. Vassal – một phụ nữ người Anh lấy chồng là sỹ quan quân y người Pháp J.J. Vassal. Khi ông được bổ nhiệm làm việc ở Viện Pasteur Nha Trang, bà đã theo ông và có thời gian 3 năm ở đây. Trong khi ông bận rộn với công vụ và việc nghiên cứu những chứng bệnh nhiệt đới sau này sẽ làm ông nổi tiếng, bà đã thu vén công việc và để bớt nỗi nhớ nhà, bà đã bỏ công nghiên cứu cảnh vật quanh mình, thích thú tìm hiểu cảnh vật và con người. Bà quan sát cảnh quan, phong tục người An Nam với cặp mắt tinh tường rồi thuật lại một cách rõ ràng sinh động. Không chỉ quan sát, bà còn lặn lội đến tận nơi những dân tộc thiểu số sinh sống mà từ trước đến giờ ít ai biết rõ.

Những sinh hoạt hàng ngày, ngày Tết, tôn giáo và những tập tục mê tín dị đoan của người An Nam, vị trí của người đàn bà trong xã hội … được bà kể lại bằng giọng văn chân phương, dung dị với cả tấm lòng, bằng đôi mắt bao dung của một người phụ nữ Phương Tây. Nha Trang là một địa danh rất xưa. Nhưng để thành một nơi nghỉ mát nổi tiếng khắp bán đảo Đông Dương trong những năm 1930, Nha Trang đã bắt đầu một cách rất khiêm tốn. cái bình dị, khiêm tốn này như thế nào cách đây 100 năm? Và cuốn sách này có thể tới tay bạn đọc Việt Nam cũng là cả một câu chuyện ly kỳ.

Nghi Thức Tang Lễ Của Người An Nam

Nghi Thức Tang Lễ Của Người An Nam

Gustave Dumoutier là nhà Việt Nam học người Pháp thuộc thế hệ đầu tiên, là một học giả có tài, một con người gắn bó và yêu mến lịch sử văn hóa Việt Nam, là nhà Đông phương học đầy nhiệt huyết có chủ trương hợp tác với giới nho sĩ Việt Nam, trân trọng và bảo tồn nền văn hóa Việt Nam truyền thống, duy trì chữ nho và khuyến khích chữ Quốc ngữ.

Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về khảo cổ, lịch sử, văn hóa Việt nói chung và Hà Nội nói riêng. Và “Nghi thức tang lễ của người An Nam là một cuốn sách như vậy.

Đối với người Việt Nam, nghi thức tang lễ có một tầm quan trọng lớn lao, biểu hiện sự tôn trọng của người sống dành cho người chết và ý niệm của người sống về sự an nghỉ của người vừa qua đời.

Các nghi thức tang lễ thay đổi tùy theo thứ bậc của người qua đời, trong gia đình và ngoài xã hội; tài sản họ có lúc sống cũng như tài lực của người thân. Tang lễ là nghi thức tôn giáo, vừa thể hiện sự hiếu đạo, nghĩa tử của người sống với người chết nhưng cũng là mối quan tâm lo lắng về sự bình an, thịnh vượng hoặc hiểm họa sau này của con cháu…

Nhiều người đọc:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button