Sách triết học phương Tây hay

Sách triết học phương Tây hay nhất. Tập hợp những tư tưởng, giới thiệu những triết gia phương Tây có tầm ảnh hưởng to lớn đến nền triết học phương Tây từ trước cho đến nay.

Từ Điển Triết Học Tây Phương – Từ Điển Triết Học Gadamer

Từ Điển Triết Học Tây Phương – Từ Điển Triết Học Gadamer

“Từ Điển Triết Học Gadamer” có tác dụng như là một điểm quy chiếu quan trọng, hỗ trợ những ai muốn nắm vững Gadamer và toàn bộ lĩnh vực thông diễn học triết học. Đó cũng sẽ là một sự trợ giúp giá trị dành cho những ai cần thông tin về nhiều nguồn gốc tạo nên công trình của Gadamer.

Hans-Georg Gadamer (1900-2002): Trung tâm điểm của sự nghiệp Gadamer là sự biện minh cho bản thân triết học trong một thế giới tinh thần bị thống trị quá thường xuyên bởi những thực hành và những thể thức của khoa học tự nhiên. Với Gadamer, sự thực hành đáng quý của thông diễn học – nhưng hoàn toàn bị lãng quên vào thời hiện đại cho đến khi được phục hồi vào thế kỷ 19, đã chứng minh rằng sự thông hiểu của con người không thể được tóm tắt trong một nhóm các quy tắc hay phương pháp luận; nó vận hành trong mọi phương diện của những nỗ lực của ta nhằm làm cho thế giới trở nên sáng rõ. Bởi lý do đó, nghệ thuật và tính chất nghệ thuật của ngôn ngữ nói cho ta biết về thế giới và về chính ta cũng nhiều như khoa học tự nhiên vốn được tôn sùng hơn. Thành công lớn lao nhất của Gadamer là dùng thông diễn học để tái định vị các khoa học nhân văn.

Công trình của Hans-Georg Gadamer – không giống như phần lớn triết học hiện đại – đặc biệt thiếu đi hệ thuật ngữ khó hiểu và đầy tính kĩ thuật. Bởi tác phẩm của ông nhấn mạnh sự phụ thuộc của ta vào ngôn ngữ hằng ngày, tức ngôn ngữ không-triết học, nên ông nỗ lực phát triển các ý tưởng để tránh sa đà dễ dãi vào hệ thuật ngữ phức tạp và gây khó hiểu. Thế nhưng Gadamer cũng tạo ra rất nhiều thuật ngữ và thành ngữ. Thí dụ, ông nói về một “sự hòa trộn các chân trời” và “ý thức lịch sử tác động”. Từ điển này có ý định giải thích chi tiết các thuật ngữ này và những thuật ngữ khác như vậy ngay trong lòng dự án triết học Gadamer. Gadamer cũng dùng các thuật ngữ gần gũi, chẳng hạn “thông diễn học”, “truyền thống” và “đối thoại”, nhưng chúng mang những nghĩa chuyên biệt trong các trước tác của ông và chúng cần một sự chú giải và minh giải chi tiết..

Giáo Trình Triết Học Phương Tây Hiện Đại

Giáo Trình Triết Học Phương Tây Hiện Đại

Triết học phương Tây hiện đại (hiểu theo nghĩa ngoài mácxít) là sự phát triển tư tưởng triết học phương Tây trong điều kiện mới, theo tinh thần mới, tinh thần “phi cổ điển”, rà soát lại những vấn đề truyền thống, bắt đầu từ Hy Lạp cổ đại.

Quá trình này diễn ra cùng với xu thế phi cổ điển hóa trong văn hóa châu Âu, thông qua văn chương, nghệ thuật, âm nhạc và các hoạt động sáng tạo khác, phản ánh sự tái bố trí lực lượng chính trị – xã hội tại châu Âu, được nhen nhóm ngay từ thời Phục hưng (thế kỷ XIV–XVI), được tiếp sức bởi các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời nhà nước kiểu mới tại một số nước Tây Âu, thay thế chế độ quân chủ phong kiến ngự trị hàng ngàn năm.

Trong một chừng mực nào đó, có thể nói, giáo trình này góp phần hệ thống hóa và đưa ra luận giải mới về sự ra đời và phát triển, đặc trưng và vai trò của lịch sử triết học phương Tây hiện đại; về những tư tưởng, quan niệm mà các trường phái kế thừa của quá khứ và của thời đại thể hiện đồng tâm dưới các phạm trù, nguyên lý, nguyên tắc.

Đặc biệt, những người biên soạn đã tổng hợp bức tranh tư tưởng triết học phương Tây hiện đại thành nhóm bốn khuynh hướng chủ đạo: phi duy lý – nhân bản, thực chứng – khoa học, tôn giáo, chính trị – xã hội.

Minh Triết Phương Tây

Minh Triết Phương Tây

Wisdom of the West, xin chuyển ngữ là Minh Triết phưong Tây, trước tác ông viết năm 1959 lược lại tổng thể nền văn hóa Tây phương từ thời cổ đại 5,6 trăm năm trước Công Nguyên cho đến thế kỷ 20.

Công trình này trải dài trên hai ngàn năm trăm năm, đặt trọng tâm trên tư tưởng và triết học. Những điều này không trên trời rơi xuống, là những sản phẩm của con người sống và tư duy trong thời đại của mình. Công trình giải mã, xếp đặt, và phê phán của ông đòi hỏi một sự hiểu biết rộng và sâu về lịch sử và xã hội Âu châu trên hai bờ Đông và Tây của Địa Trung hải.

Bertrand Russell không chỉ liệt kê niên biểu, trình bày lại những đề xuất, những sáng tạo về tư duy triết lý. Với cá tính, và ông trình bày chúng dưới góc nhìn riêng biệt của ông, khi hóm hỉnh theo thế cách uy-mua (hài hước) đặc thù của người Anh, khi phê phán không khoan nhượng với những gì đi ngược lại con đường duy lý khoa học. Nhưng rồi cuối cùng, ông vẫn giữ được hơi văn thấm đẫm chất con người khai mở, rộng lượng, và không có cái ảo tưởng độc quyền chân lý.

Trích Lời người chuyển ngữ

Lịch Sử Triết Học Phương Tây – Tâp 1: Từ Triết Học Cổ Đại Đến Triết Học Cổ Điển Đức

Lịch Sử Triết Học Phương Tây – Tâp 1: Từ Triết Học Cổ Đại Đến Triết Học Cổ Điển Đức

Tư duy lý luận, tư duy khoa học là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của con người, đặc biệt là nhận thức, giải thích thế giới một cách khoa học và hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Ph. Angghen đã chỉ rõ: “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. Việc rèn luyện, phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận, qua đó góp phần phát triền khoa học nói riêng, cũng như phát triển xã hội nói chung là một việc vô cùng quan trọng và cần thiết, và “muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”.

Để không ngừng phát triển tư duy lý luận nhằm tránh những sai lầm lệch lạc trong xây dựng đất nước, phát triển xã hội và đóng góp vào cách mạng thế giới, phục vụ ngày càng tốt hơn cho thực tiễn phát triển xã hội, Đảng ta đặc biệt chú trọng đến công tác lý luận, tư tưởng.

Đại Cương Triết Học Tây Phương

Đại Cương Triết Học Tây Phương

Lịch sử triết học Tây phương đã tồn tại trên dưới 25 thế kỷ. Trong lịch sử triết học Tây phương, nếu Thales là triết gia đầu tiên vì ông bắt đầu nhìn ra thế giới thì Socrates là triết gia và hiền giả vĩ đại nhất vì ông bắt đầu nhìn vào con người.

Cuốn sách này chỉ giới hạn đối tượng độc giả trong những người muốn có kiến thức tổng quát và căn bản về triết học hoặc muốn sắp xếp những ý tưởng của mình đã biết thành hệ thống mạch lạc và thuận lý. Vì thế, nó nhắm tới 3 mục đích: 1. Giới thiệu khá chi tiết một số lĩnh vực chính của triết học cùng các triết gia liên hệ, có những đóng góp quan trọng; 2. Trình bày đại cương một số chủ đề kèm theo các luận cứ được họ đề xuất; 3. Đưa ra những miêu tả tổng quát và ngắn gọn các khái niệm cùng các thách thức cơ bản qua đó triết học triển khai qua nhiều thế kỷ, để làm bối cảnh trình bày.

Sách gồm 3 phần: Phần đầu nói tới các chủ đề rộng lớn của triết học. Tiếp đến là phần phụ lục gồm đôi nét tiểu sử và quan điểm của 30 triết gia, từ cổ đại đến hậu hiện đại. Kế đó là các chú giải khái quát một số thuật ngữ triết học được đề cập ít nhiều trong phần đầu. Phần thứ hai chỉ để giúp bạn đọc có thêm cơ hội hình dung các triết gia ấy và ôn lại tiến trình tư tưởng của triết học Tây phương. Phần thứ ba gồm một bài đọc thêm khá dài về chủ nghĩa hậu hiện đại trên cả ba phương diện triết học lẫn mỹ thuật và văn học.

Chủ nghĩa vô thần – Dẫn nhập ngắn

Chủ nghĩa vô thần – Dẫn nhập ngắn

“Chủ nghĩa vô thần thường được coi là một niềm tin tiêu cực, đen tối và bi quan, được đặc trưng bởi sự bác bỏ các giá trị và mục đích và sự phản đối quyết liệt đối với tôn giáo.

Chủ nghĩa vô thần: Một giới thiệu rất ngắn được đặt ra để xua tan những huyền thoại xung quanh chủ nghĩa vô thần và cho thấy một cuộc sống không có niềm tin tôn giáo có thể tích cực, có ý nghĩa và đạo đức như thế nào. Nó cũng đối mặt với sự thất bại của các quốc gia vô thần chính thức trong Thế kỉ XX. Cuốn sách trình bày một trường hợp trí tuệ cho chủ nghĩa vô thần, dựa nhiều vào những lí lẽ tích cực cho sự thật của nó cũng như về những lập luận tiêu cực chống lại tôn giáo”.

Suy Tưởng

Suy Tưởng

Nghe nói Marcus Aurelius thích trích dẫn câu nói trên của Plato, và những ai đã từng viết về ông khó cưỡng lại vận nó vào bản thân Marcus. Và tất nhiên, nếu là đi tìm ông vua-triết gia của Plato bằng xương bằng thịt thì chúng ta cũng khó tìm được ai tốt hơn Marcus, người cai trị Đế quốc La Mã gần hai thập niên, và là tác giả cuốn Meditation (Suy tưởng) bất hủ.

Thế nhưng danh hiệu này chắc chắn bản thân Marcus sẽ bác bỏ. Ông không bao giờ nghĩ mình là một triết gia. Ông chỉ tự nhận là một học trò cần mẫn và người thực hành chưa hoàn hảo của một triết thuyết do những người khác lập ra. Còn về ngôi vua, nó đến một cách gần như tình cờ. Khi Marcus Annius Verus sinh ra, năm 121 CN, những người có mặt đã tiên đoán một sự nghiệp sáng chói trong Viện Nguyên lão của bộ máy cầm quyền. Họ không thể nào đoán được số phận đã dành cho ông ngôi hoàng đế, và trong trí tưởng tượng của họ không thể nào có cảnh tượng người kị sĩ đồng cô độc giơ tay vẫy chào chúng ta từ trên đỉnh đồi Capitol La Mã qua hai nghìn năm..

Chủ Nghĩa Khắc Kỷ – Phong Cách Sống Bản Lĩnh Và Bình Thản

Chủ Nghĩa Khắc Kỷ – Phong Cách Sống Bản Lĩnh Và Bình Thản

“Nếu bạn đau khổ bởi bất cứ điều gì từ bên ngoài, thì nỗi đau của bạn không do điều đó gây ra, mà do cách bạn nhìn nhận và phản ứng với điều đó. Và bạn hoàn toàn có quyền rút lại sự phản ứng này vào bất cứ giây phút nào.”

Đây là câu nói của hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, người đồng thời cũng là một trong những triết gia đại diện lớn nhất của chủ nghĩa khắc kỷ.

Tôi luôn nghĩ một trong những nguyên nhân chính khiến con người cảm nhận sự bất hạnh, là việc họ không chấp nhận cách thực tế đang diễn ra nếu đó là thực tế không như mong muốn của họ, và họ tìm cách chối bỏ hoặc chống lại nó.

Chủ nghĩa khắc kỷ dạy ta phải tương tác với cách thế giới khách quan đang vận hành theo cách riêng của nó, thay vì bắt nó phải vận hành theo cách ta mong muốn..

Cộng Hòa – Plato

Cộng Hòa – Plato

Cuốn sách được xem là cột mốc lớn của triết học phương Tây. Tác phẩm được trình bày dưới dạng đối thoại giữa Plato và những người khác.

Mặc dù chủ đề chính là về một nhà nước lý tưởng nhưng nó cũng xoay quanh giáo dục, tâm lý, đạo đức và chính trị. Trong các đoạn chính của Cộng hòa, Plato sử dụng những huyền thoại để khám phá bản chất tự nhiên của thực tế, truyền đạt cái nhìn về sự tiên đoán của con người và vai trò của triết học trong việc thiết lập tự do. Ông tưởng tượng ra một cái hang mà những con người bị xiềng xích từ khi mới sinh ra làm bạn với cái bóng của mình và mang họ đến thực tế.

Vai trò của triết học, cụ thể là những gì Plato gọi là biện chứng, là đưa con người ra khỏi cái bóng và hướng bản thân họ tới thực tế. Đây là bản chất của việc theo đuổi sự khôn ngoan mà không có nhà nước lý tưởng nào không làm. Độc giả hiện đại có thể đồng ý với mọi điều Plato nói, cũng như lập luận chặt chẽ, cái nhìn đầy chất thơ vẫn có sức mạnh trong việc kích thích và thách thức. Sức mạnh lâu dài này đã làm của Cộng hòa trở thành một trong những nền tảng của văn hóa phương Tây.

Bàn Về Tự Do

Bàn Về Tự Do

Khác với việc tiếp cận các học thuyết tư tưởng phương Đông, việc tiếp cận các trào lưu tư tưởng tinh hoa của phương Tây đối với độc giả Việt Nam đã và vẫn đang gặp phải không ít khó khăn. Không nói tới các nhà tư tưởng cổ đại như Socrates, Plato, Aristotle, v.v… mà ngay cả các nhà tư tưởng cận đại của phong trào Khai sáng, độc giả cũng hiếm có cơ hội để có được bản dịch các tác phẩm kinh điển quan trọng. Nhìn tổng thể, có thể nói các sách biên khảo khoa học và các học thuyết quan trọng của phương Tây vẫn chưa được giới thiệu một cách nghiêm túc và hệ thống ở Việt Nam.

Khoảng trống về đề tài quan trọng này là điều bất lợi lớn với một đất nước đang muốn xây dựng nền kinh tế tri thức và mở rộng quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật và văn hoá với các nước phát triển. Trên tinh thần mong muốn truyền tải những tư tưởng đó, bồi đắp thêm những khoảng trống về tri thức còn thiếu hụt, chúng tôi xin giới thiệu với độc giả bản dịch luận văn Bàn về tự do (On Liberty – 1859) của John Stuart Mill qua bản dịch của Nguyễn Văn Trọng.

Mặc dù được viết ra cách đây đã gần 150 năm nhưng Bàn Về Tự Do vẫn còn nguyên giá trị và là tác phẩm giữ vị trí quan trọng trong tư duy lý luận và tư tưởng phương Tây. Thời Canh tân Minh Trị ở Nhật Bản và thời Phong trào Ngũ Tứ ở Trung Quốc, hai nước đã cho dịch và phát hành rộng rãi cuốn sách này để mở mang tri thức cho dân tộc.

Chính Trị Luận

Chính Trị Luận

Tác phẩm nổi tiếng viết về các khái niệm mà từ đó định hình các quốc gia và chính phủ. Mặc dù, Aristotle cổ vũ mạnh mẽ cho chế độ nô lệ lạc hậu, quan điểm của ông về Hiến pháp và cách điều hành chính phủ lại rất kinh điển. Dù chỉ thảo luận về nhà nước và các định chế thời Hy Lạp cổ nhưng tác phẩm này của ông đã đặt nền tảng cho khoa học chính trị hiện đại

Tác phẩm này được xem là căn bản cho Chính trị học Tây phương. Chính trị luận nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền, chính trị, tự do, công bằng, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp của các cơ quan thẩm quyền.

Aristotle là biểu tượng của trí tuệ tư duy triết học. Mặc dù nội dung rất sâu sắc nhưng cách trình bày của ông lại rất dễ hiểu. Ông viết những suy nghĩ của mình một cách rõ ràng với độ chính xác siêu phàm. Học thuyết của ông có ảnh hưởng lớn đến những lĩnh vực hiện đại như : khoa học, chủ nghĩa duy thực và logic học

Tôi Là Ai – Và Nếu Vậy Thì Bao Nhiêu

Tôi Là Ai – Và Nếu Vậy Thì Bao Nhiêu

Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ.

Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học.

Câu Chuyện Triết Học – Đời Sống Và Quan Điểm Của Những Triết Gia Lớn Phương Tây

Câu Chuyện Triết Học – Đời Sống Và Quan Điểm Của Những Triết Gia Lớn Phương Tây

Thật tài tình và thú vị khi Will Durant (1886-1981) đặt tên cho công trình lịch sử triết học của mình là “The Story of Philosophy”.

Lịch sử triết học vốn khét tiếng là khô khan và nhức đầu! Will Durant có cái nhìn khác: nó rất hấp dẫn, lôi cuốn, nhất là với những ai có tính tò mò, “ham chuyện” như chúng ta. Với ông, ở đây ta có một câu chuyện thật gay cấn và đáng được kể lại cho nhiều người nghe dưới hình thức một câu chuyện!

Viết lịch sử như một câu truyện là một nghệ thuật cao cường của tác giả. Dễ hiểu tại sao “Câu truyện” này lại thành công ngoạn mục đến thế. Từ khi ra mắt vào năm 1926, trong vòng 50 năm (1976) tác phẩm đã được tái bản đến 28 lần, và đến nay (đầu 2008) không biết đã đến lần thứ bao nhiêu!…

Tuy nhiên, Will Durant, xuất thân là một ông nghè triết học của đại học Columbia, Hoa kỳ từ năm 1917, không chỉ khéo léo về phương pháp viết lịch sử triết học như một Câu truyện mà còn có đủ thẩm quyền chuyên môn để hiểu bản chất của lịch sử triết học (Tây Phương) như một câu chuyện. Đó là một câu chuyện đúng nghĩa vì đầy những tình tiết éo le, những thăng trầm kịch tính, những đường chim nẻo nguyệt của tâm thức con người được chưng cất ở mức độ đậm đặc nhất.

… Vì thế, với tấm lòng chân thành và cởi mở của một học giả đích thực, W. Durant xác định rõ mục đích của quyển sách này là làm cho người bình thường hiểu được những ý tưởng cao xa của triết học. Ông xem khoa học như là sự “phân tích”, còn triết học như là sự “tổng hợp”. Vì thế, ông kết luận: “Khoa học là sự mô tả kiểu phân tích, trong khi triết học là sự lý giải kiểu tổng hợp. Vì lẽ một sự kiện không bao giờ là hoàn chỉnh trừ khi được đặt vào mối quan hệ với một mục đích và với cái toàn bộ. Khoa học mang lại cho ta kiến thức, nhưng chỉ có triết học mới có thể cho ta sự hiền minh”.

Các Vấn Đề Của Triết Học

Các Vấn Đề Của Triết Học

Ngoài tính lợi ích trong việc chỉ ra được những triển vọng không ngờ tới, triết học còn có một giá trị – có lẽ là giá trị chính của nó -nhờ độ lớn lao của những đối tượng mà nó chiêm nghiệm, và sự tự do thoát khỏi những mục tiêu cá nhân và hạn hẹp nhờ sự chiêm nghiệm này.

Cuộc đời của con người bản năng bị nhốt trong vòng những mối quan tâm riêng tư, có thể bao gồm gia đình và bạn bè, nhưng ngoại giới không được suy xét tới trừ phi nó thúc đẩy hay cản trở những gì đến trong vòng tròn ước muốn bản năng. Trong một cuộc đời như thế có cái gì đó bồn chồn và hạn hẹp mà so với nó cuộc đời triết lý thì bình lặng và tự do.

Thế giới riêng tư của những quan tâm bản năng là một thế giới nhỏ nhoi, bị nhấn vào một thế giới uy lực và lớn lao mà sớm hay muộn cũng làm thế giới riêng tư của chúng ta hoang tàn. Nếu không mở rộng được những mối quan tâm của chúng ta ra cả thế giới bên ngoài, chúng ta vẫn cứ là một tên lính trong pháo đài bị vây, biết rằng kẻ thù chặn đường thoát và chẳng chóng thì chày cũng phải đầu hàng. Trong một cuộc đời như thế chẳng có bình an mà chỉ có xung đột liên tục giữa dục vọng không ngừng và ý chí bất lực. Theo cách này hay cách khác, nếu muốn cuộc đời chúng ta to lớn và tự do, chúng ta phải thoát khỏi ngục tù và xung đột này.

Một cách trốn thoát là bằng chiêm nghiệm triết học.

Những Tìm Sâu Triết Học

Những Tìm Sâu Triết Học

Ngay sau khi xuất bản vào năm 1953, Những Tìm Sâu Triết Học của Ludwig Wittgenstein đã được ca ngợi là một kiệt tác, và những năm tiếp theo đó đã xác nhận đánh giá ban đầu này. Ngày nay nó được thừa nhận rộng rãi là tác phẩm triết học quan trọng nhất của thế kỷ XX.

Bản dịch tiếng Việt này đã dựa trên ấn bản lần tư, do hai chuyên gia chuyên về Wittgenstein là Peter Hacker và Joachim Schulte, họ đã thêm những thay đổi biên tập quan trọng vào trong các ấn bản trước của tác phẩm này nhằm thể hiện ý định ban đầu của Wittgenstein: sắp xếp lại các nốt của Wittgenstein, chỉnh sửa cho bản gốc Đức, và đánh số lại tất cả các nhận xét trong Phần 2 đồng thời đặt tên lại là “Triết học Tâm lý – Một phân đoạn”. Các thay đổi, chỉnh sửa sâu rộng cũng áp dụng cho cả bản dịch tiếng Anh ban đầu của G. E. M. Anscombe.

Được coi là một triết gia vĩ đại nhất của thế kỷ 20, Ludwig Wittgenstein đóng vai trò trung tâm, gây tranh cãi, trong triết học phân tích thế kỷ 20. Hiện nay, ông vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến tư tưởng triết học trong các chủ đề đa dạng như logic và ngôn ngữ, nhận thức và ý định, đạo đức và tôn giáo, mỹ học và văn hóa.

Theo Stanford Encyclopedia of Philosophy – Mục Wittgenstein

Nhiều người đọc:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button